Tin Tức Cập Nhật 24/7

Tin Mới Nhất

HOT VIDEO CHANNEL - TV Bài nói về Biển Đông & TQ cực hay của Trung tương Phạm Văn Dỹ - Chính Ủy QK 7
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa Học - Kỷ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa Học - Kỷ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thiết bị Trung Quốc và an ninh mạng


Một hacker Trung Quốc bị cảnh sát bắt tại sân bay Tây An, Trung Quốc hôm 3/12/2006 với hai thẻ nhận dạng, 100.000 Nhân dân tệ, một số thẻ ngân hàng và một máy tính xách tay. AFP photo



Ngày 29 tháng 7, chỉ trong vài giờ đồng hồ, những màn hình và hệ thống máy tính ở sân bay Việt Nam đã bị hacker tấn công với những thông điệp phỉ báng Việt Nam và Philippines. Sau đó, hệ thống máy tính của các cơ quan và doanh nghiệp Việt Nam xuất hiện mã độc giống như thế. Nhóm hacker này được cho là nhóm 1937cn từ Trung Quốc.

Chuyên gia về an ninh mạng Hoàng Ngọc Diêu, từ Sydney, Australia có những phân tích chuyên môn về sự việc này.

“Theo đánh giá kỹ thuật thì mình không nghĩ đây là một trò chơi của nhà cầm quyền Trung Quốc. Vì trong suốt 1 lịch sử rất dài, nhà cầm quyền Trung Quốc không có chơi những trò này. Họ thường nghe lén hoặc đánh cắp thông tin. Nếu họ có tấn công thì họ tấn công coi như 1 cách chuyên nghiệp, đưa đến một kết quả tồi tệ, chứ họ không đưa trên 1 hệ thống của phi trường. Rồi dựa trên những thông tin kỹ thuật mà tôi có trong tay thì không thấy tính tinh tế, ghê gớm của cấp độ quốc gia chơi với quốc gia. Tôi nghĩ có thể một nhóm nào đó của Trung Quốc làm, vì thông tin đi từ Trung Quốc ra.”

RFA: Ý của ông muốn nói rằng nhóm hacker này có gốc Trung Quốc nhưng không phải đứng đằng sau là chính phủ Trung Quốc?

  Theo đánh giá kỹ thuật thì mình không nghĩ đây là một trò chơi của nhà cầm quyền Trung Quốc...Tôi nghĩ có thể một nhóm nào đó của Trung Quốc làm, vì thông tin đi từ Trung Quốc ra.

- Hoàng Ngọc Diêu, Sydney
Hoàng Ngọc Diêu: Đúng rồi, biểu hiện của nó mang tính chất cá nhân hơn là một cấp độ quy cũ của quốc gia. Hoặc chính nhà nước Trung Quốc cũng muốn vậy. Nhưng cách dàn dựng và tấn công rõ ràng là đã có cách đây vài năm rồi chứ không phải mới đây.

RFA: Có nghĩa là họ đã thâm nhập vào hệ thống của Việt Nam và chờ ở đấy cách đây mấy năm rồi?

Hoàng Ngọc Diêu: Đúng rồi, theo những mẫu tôi nắm được trong tay, nó được tạo ra từ 2012, 2013, 2014 và 2015.

RFA: Có nghĩa là chúng ta cũng không chắc được là 2017, 2018 có diễn ra những việc này nữa hay không. Như vậy những người sử dụng máy tính ở Việt Nam, những hệ thống lớn như sân bay, các tổ chức doanh nghiệp lớn vừa nhỏ nên có những cách xử lý và phòng ngừa thế nào đối với những mã độc đó nếu xảy ra một lần nữa?

Hoàng Ngọc Diêu: Tôi thấy có hai phạm trù khác nhau, phạm trù dân sự và quân sự. khi mình nói đến quân sự là nói đến trách nhiệm của chính quyền. Mình nói đến dân sự là mình nói đến trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội.

Khi nói đến góc độ quân sự thì theo cái tôi nhìn thấy và nhận xét suốt từ 2007 đến giờ, thì nhà nước Việt Nam có vẻ không quan tâm hoặc xem trọng vấn đề bảo mật cho hệ thống mạng của Việt Nam nói chung. Cái đó biểu hiện qua suốt quá trình họ sử dụng những thiết bị của Trung Quốc, những nhà thầu Trung Quốc. Để mà cải tạo những chuyện đó, họ phải thay đổi hoàn toàn cái tư duy. Như vừa rồi có một bộ trưởng của Việt Nam cho rằng vì điều kiện lịch sử gì đó nên phải sử dụng đồ của Trung Quốc. Tôi thấy đó là một tư duy kỳ quái. Vì đối với một lợi ích quốc gia thì không có việc gì phải như vậy. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều có quyền chọn lựa loại thiết bị, sản phẩm cho thích hợp và đáng tin cậy chứ không có gì phải ràng buộc.

  Khi nói đến góc độ quân sự thì theo cái tôi nhìn thấy và nhận xét suốt từ 2007 đến giờ, thì nhà nước Việt Nam có vẻ không quan tâm hoặc xem trọng vấn đề bảo mật cho hệ thống mạng của Việt Nam nói chung.

- Hoàng Ngọc Diêu, Sydney
Còn đối với người dân thì cái khổ của người dân Việt Nam hiện giờ là hàng hoá Trung Quốc tràn ngập. Những người bình thường không có tiền cho nên họ xài những đồ Trung Quốc, như mobile phone rẻ tiền, rồi những modem ở nhà. Họ không có nhiều chọn lựa. Cái duy nhất họ có thể kiện toàn phần nào chuyện bảo mật là họ nên tìm hiểu và có ý thức cho cá nhân họ.

RFA: Những công ty của Trung Quốc như công tu HOAVI cung cấp linh kiện điện tử, công nghệ thông tin và bị nghi ngờ ở nhiều nước phương Tây là làm gián điệp cho Trung Quốc. Nhưng đối với Việt Nam thì thiết bị của họ rẻ, nên có thể đặt ra vấn đề là mình chọn những thiết bị rẻ tiền mà giữ được an ninh mạng không thưa anh?

Hoàng Ngọc Diêu: Tôi nói thẳng luôn là cái khía cạnh cho là rẻ mà mua thiết bị của Trung Quốc thì tôi thấy không được hữu lý lắm. Ngân sách của Việt Nam tốn cho kỹ thuật mạng rất lớn. Họ vẫn có thể mua những thiết bi rất tốt. Họ mua cái này rẻ vì có những phần trăm trong đó. Thực tế nó đau buồn nhưng vẫn là thực tế.

RFA: Xin cảm ơn anh Hoàng Ngọc Diêu đã trả lời phỏng vấn.

Cát Linh
Theo RFA
Nhấp vào nút play (►) dưới đây để nghe

Tải xuống

Thiết bị Trung Quốc và an ninh mạng


Một hacker Trung Quốc bị cảnh sát bắt tại sân bay Tây An, Trung Quốc hôm 3/12/2006 với hai thẻ nhận dạng, 100.000 Nhân dân tệ, một số thẻ ngân hàng và một máy tính xách tay. AFP photo



Ngày 29 tháng 7, chỉ trong vài giờ đồng hồ, những màn hình và hệ thống máy tính ở sân bay Việt Nam đã bị hacker tấn công với những thông điệp phỉ báng Việt Nam và Philippines. Sau đó, hệ thống máy tính của các cơ quan và doanh nghiệp Việt Nam xuất hiện mã độc giống như thế. Nhóm hacker này được cho là nhóm 1937cn từ Trung Quốc.

Chuyên gia về an ninh mạng Hoàng Ngọc Diêu, từ Sydney, Australia có những phân tích chuyên môn về sự việc này.

“Theo đánh giá kỹ thuật thì mình không nghĩ đây là một trò chơi của nhà cầm quyền Trung Quốc. Vì trong suốt 1 lịch sử rất dài, nhà cầm quyền Trung Quốc không có chơi những trò này. Họ thường nghe lén hoặc đánh cắp thông tin. Nếu họ có tấn công thì họ tấn công coi như 1 cách chuyên nghiệp, đưa đến một kết quả tồi tệ, chứ họ không đưa trên 1 hệ thống của phi trường. Rồi dựa trên những thông tin kỹ thuật mà tôi có trong tay thì không thấy tính tinh tế, ghê gớm của cấp độ quốc gia chơi với quốc gia. Tôi nghĩ có thể một nhóm nào đó của Trung Quốc làm, vì thông tin đi từ Trung Quốc ra.”

RFA: Ý của ông muốn nói rằng nhóm hacker này có gốc Trung Quốc nhưng không phải đứng đằng sau là chính phủ Trung Quốc?

  Theo đánh giá kỹ thuật thì mình không nghĩ đây là một trò chơi của nhà cầm quyền Trung Quốc...Tôi nghĩ có thể một nhóm nào đó của Trung Quốc làm, vì thông tin đi từ Trung Quốc ra.

- Hoàng Ngọc Diêu, Sydney
Hoàng Ngọc Diêu: Đúng rồi, biểu hiện của nó mang tính chất cá nhân hơn là một cấp độ quy cũ của quốc gia. Hoặc chính nhà nước Trung Quốc cũng muốn vậy. Nhưng cách dàn dựng và tấn công rõ ràng là đã có cách đây vài năm rồi chứ không phải mới đây.

RFA: Có nghĩa là họ đã thâm nhập vào hệ thống của Việt Nam và chờ ở đấy cách đây mấy năm rồi?

Hoàng Ngọc Diêu: Đúng rồi, theo những mẫu tôi nắm được trong tay, nó được tạo ra từ 2012, 2013, 2014 và 2015.

RFA: Có nghĩa là chúng ta cũng không chắc được là 2017, 2018 có diễn ra những việc này nữa hay không. Như vậy những người sử dụng máy tính ở Việt Nam, những hệ thống lớn như sân bay, các tổ chức doanh nghiệp lớn vừa nhỏ nên có những cách xử lý và phòng ngừa thế nào đối với những mã độc đó nếu xảy ra một lần nữa?

Hoàng Ngọc Diêu: Tôi thấy có hai phạm trù khác nhau, phạm trù dân sự và quân sự. khi mình nói đến quân sự là nói đến trách nhiệm của chính quyền. Mình nói đến dân sự là mình nói đến trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội.

Khi nói đến góc độ quân sự thì theo cái tôi nhìn thấy và nhận xét suốt từ 2007 đến giờ, thì nhà nước Việt Nam có vẻ không quan tâm hoặc xem trọng vấn đề bảo mật cho hệ thống mạng của Việt Nam nói chung. Cái đó biểu hiện qua suốt quá trình họ sử dụng những thiết bị của Trung Quốc, những nhà thầu Trung Quốc. Để mà cải tạo những chuyện đó, họ phải thay đổi hoàn toàn cái tư duy. Như vừa rồi có một bộ trưởng của Việt Nam cho rằng vì điều kiện lịch sử gì đó nên phải sử dụng đồ của Trung Quốc. Tôi thấy đó là một tư duy kỳ quái. Vì đối với một lợi ích quốc gia thì không có việc gì phải như vậy. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều có quyền chọn lựa loại thiết bị, sản phẩm cho thích hợp và đáng tin cậy chứ không có gì phải ràng buộc.

  Khi nói đến góc độ quân sự thì theo cái tôi nhìn thấy và nhận xét suốt từ 2007 đến giờ, thì nhà nước Việt Nam có vẻ không quan tâm hoặc xem trọng vấn đề bảo mật cho hệ thống mạng của Việt Nam nói chung.

- Hoàng Ngọc Diêu, Sydney
Còn đối với người dân thì cái khổ của người dân Việt Nam hiện giờ là hàng hoá Trung Quốc tràn ngập. Những người bình thường không có tiền cho nên họ xài những đồ Trung Quốc, như mobile phone rẻ tiền, rồi những modem ở nhà. Họ không có nhiều chọn lựa. Cái duy nhất họ có thể kiện toàn phần nào chuyện bảo mật là họ nên tìm hiểu và có ý thức cho cá nhân họ.

RFA: Những công ty của Trung Quốc như công tu HOAVI cung cấp linh kiện điện tử, công nghệ thông tin và bị nghi ngờ ở nhiều nước phương Tây là làm gián điệp cho Trung Quốc. Nhưng đối với Việt Nam thì thiết bị của họ rẻ, nên có thể đặt ra vấn đề là mình chọn những thiết bị rẻ tiền mà giữ được an ninh mạng không thưa anh?

Hoàng Ngọc Diêu: Tôi nói thẳng luôn là cái khía cạnh cho là rẻ mà mua thiết bị của Trung Quốc thì tôi thấy không được hữu lý lắm. Ngân sách của Việt Nam tốn cho kỹ thuật mạng rất lớn. Họ vẫn có thể mua những thiết bi rất tốt. Họ mua cái này rẻ vì có những phần trăm trong đó. Thực tế nó đau buồn nhưng vẫn là thực tế.

RFA: Xin cảm ơn anh Hoàng Ngọc Diêu đã trả lời phỏng vấn.

Cát Linh
Theo RFA
Nhấp vào nút play (►) dưới đây để nghe

Tải xuống

Chiến tranh du kích hiện đại


Chiến tranh du kích hiện đại - Điều rất nguy hiểm và tệ hại là nhân dân đang thức tỉnh trong khi lãnh đạo vẫn ngủ mê. Ảnh minh họa

Dư luận trong và ngoài nước VN đang xôn xao bàn tán về những cuộc phá rối trên mạng Internet, làm cho các sân bay Hà Nội và Tân Sơn Nhất bị đình trệ hàng giờ, gây rối loạn trong việc điều hành của Hàng Không VN. Tất cả các thông tin điện tử đều tắt ngấm, các máy computer tê liệt mà chưa rõ nguyên nhân từ đâu. Chỉ biết thỉnh thoảng lại hiện lên những lời thô tục chửi bới VN vi phạm chủ quyền TQ trên Biển Đông.

Trước đó Bộ Ngoại giao Bắc Kinh gửi công hàm yêu cầu phía VN điều tra và trừng phạt người nào đã viết lời chửi tục trên Hộ chiếu có in hình lưỡi bò 9 đoạn khi quá cảnh qua biên giới Việt – Trung. Phải chăng sự quấy rối trên mạng ở 2 sân bay lớn nhất là sự trả đũa ngầm của bọn bành trướng bị chạm nọc, đau xót khi bị Tòa án Quốc tế ra phán quyết cắt đứt cái lưỡi bò xâm lược của họ.

Cũng vào dịp này, máy vô tuyến truyền hình ở các tỉnh Quảng trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam bị tin tặc quấy phá, bị xen vào những hình ảnh và lời bình thô bạo chống nhân dân VN theo luận điệu ngang ngược quen thuộc của họ.

Ngày 1/8 Chủ tịch nước Trần Đại Quang khi gặp các cử tri cũng nhắc đến cuộc chiến tranh mạng và nói về trách nhiệm của Cục An ninh mạng trong Bộ Công an, về sự lợi hại phức tạp của cuộc “chiến tranh ảo”, không khói súng và thuốc nổ, cuộc chiến tranh du kích hiện đại, bằng chỉ dí con chuột” trên máy computer mà hậu quả thật ghê gớm, vì thủ phạm luôn giấu mặt, âm thầm, ảo.

Báo mạng Đại Kỷ Nguyên và mạng Express vừa có bài nghiên cứu viết sâu về “cuộc chiến tranh du kích hiện đại” còn mới mẻ rất nguy hiểm này. Các bài báo cho biết ở TQ, bộ Tổng tham mưu Quân Giải Phóng Nhân dân – PLA – là cơ quan chỉ đạo của cuộc “chiến tranh mạng” đang được chuẩn bị gấp rút. Tòa nhà Bát Nhất ở Thượng Hải chính là bản doanh tối cao của cuộc chiến tranh này.

Tập Cận Bình Tổng bí thư Kiêm chủ tịch Nước, Bí thư Quân ủy TƯ, kiêm Tổng tư lệnh tối cao đích thân chuẩn bị và chỉ đạo cuộc chiến tranh hiện đại này.

Về mặt tổ chức, mới đây Bộ Tổng Tham mưu được tổ chức lại thành 3 Tổng Cục:

– Tổng Cục II, là cơ quan gián điệp do thám cao nhất, mang tên TC.

Humint (theo từ gốc Human là nhân lực), có chừng 50 ngàn người, chuyên dùng gián điệp thâm nhập khắp nơi trong và ngoài nước để theo dõi, thăm dò, thu lượm và phân tích mọi tin tức ngoài xã hội, trong đảng CS, các tổ chức xã hội cũng như khắp các nước khác,

– Tổng Cục III, chuyên về không gian mạng, mang tên TC Signit (theo từ gốc Sign, nghĩa là Chữ và Số), được coi là Tổng cục Chủ lực trong chiến tranh mạng, có 20 văn phòng ở các lĩnh vực và khu vực, bao gồm đến 300 ngàn nhân viên có tay nghề vững về xử dụng máy tính điện tử cao cấp, có mạng lưới rộng khắp trong và ngoài nước.

– Tổng Cục IV, chuyên thực hiện trực tiếp các cuộc tiến công điện tử, mang tên TC Elmit, theo từ Elect – Electronic – điện tử, cũng là TC EW – Electronic War trực tiếp điều khiển hàng ngàn vệ tinh, hàng vạn Radar, hàng chục vạn chuyên viên tình báo.

Các Tổng cục trên đây tuyển mộ nhân viên trong và ngoài nước lanh lợi thông minh, ở ngoài nước cài cắm vào số chuyên viên đại sứ quán, lãnh sự quán, các Hội sinh viên, du học sinh, các Hiệp hội đồng hương, Hội Tam hoàng, chuyên do thám, thu lượm tin tức, ăn cắp các tin mật, tài sản trí tuệ, các sáng chế phát minh mật, các quy trình khoa học công nghệ mật về quân sự, quốc phòng.

Các Tổng Cục trên đều được huấn luyện chuyên sâu về “chiến tranh thương mại, chiến tranh tài chính, chiến tranh sinh thái, chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông, chiến tranh tin đồn, chiến tranh ma túy”.

Bộ chỉ huy tối cao của cuộc chiến tranh mạng của Bộ Tổng Tham mưu PLA TQ mang bí số “Đơn Vị 61398”, với 5 con số.

Các nhà nghiên cứu cho biết, so với TQ, Hoa Kỳ đã tiến trước, vượt xa TQ về chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mạng hàng chục năm, do đó vượt xa TQ về vũ khí nguyên tử, về tên lửa và chặn tên lửa tầm gần cũng như tầm xa, về tàu ngầm nguyên tử cũng như về khu trục hạm và Hàng không mẫu hạm.

CIA và FBI, cơ quan tình báo, an ninh, do thám Hoa Kỳ cũng có kinh nghiệm, tay nghề vượt trội TQ, nhưng luôn kín đáo, bí hiểm, có hiệu quả.

Hoa Kỳ luôn cản phá được các gián điệp ngầm của TQ, như đã bắt giam gần đây 5 sỹ quan gốc TQ chui vào bộ máy chiến tranh mạng của Hoa Kỳ khi họ chưa gây được hậu quả gì đáng kể.

Các nước Đông Nam Á đều tỏ ra cảnh giác với gián điệp bằng người và bằng máy tính rất nham hiểm của TQ, nhất là của cơ quan tình báo Hoa Nam.

Vụ phá hoại môi trường ven biển miền Trung, vụ án Formosa – Plastics , Vụ khai thác Bô xit Tây Nguyên, Vụ 2 máy bay bị hạ bí hiểm, vụ máy vô tuyến bị nhiễu ở ba tỉnh miền Trung Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, vụ 2 sân bay lớn bị mất tín hiệu… có nhiều khả năng là những đòn thăm dò, nắn gân thí điểm của “chiến tranh sinh thái”, “chiến tranh diện tử”, “cuộc chiến tranh du kích hiện đại” không khói, không tiếng nổ, mà ông láng giềng phương Bắc muốn gửi “tặng” cho người đồng chí CS đàn em phía Nam ngu ngơ dại dột, khôn nhà dại chợ, hèn với giặc ác với dân.

Điều rất nguy hiểm và tệ hại là nhân dân đang thức tỉnh trong khi lãnh đạo vẫn ngủ mê, cố tình lầm lẫn, coi nhân dân yêu nước kiên cường là đối tượng đàn áp, lẫn lộn thù, bạn, ta một cách mù quáng dại dột.

Bùi Tín
Ba Sàm

Được ‘dạy thêm một bài’ nhưng chưa chắc Việt Nam học được gì


Được ‘dạy thêm một bài’ nhưng chưa chắc Việt Nam học được gì - (Hình minh họa: Roslan Rahman/AFP/Getty Images)

HÀ NỘI – Chính quyền Việt Nam chưa có ý kiến chính thức về sự kiện tin tặc xâm nhập, chiếm quyền kiểm soát mạng máy tính hai hai phi trường Nội Bài và Tân Sơn Nhất.

Chiều 29 Tháng Bảy, thay vì hiển thị thông tin về các chuyến bay, các yêu cầu và hướng dẫn về an toàn hàng không thì toàn bộ màn hình ở hai phi trường lớn nhất Việt Nam là Nội Bài (Hà Nội) và Sài Gòn xuất hiện “những thông tin kích động, xúc phạm Việt Nam và Philippines, xuyên tạc các nội dung về Biển Đông.”

Thậm chí quyền kiểm soát hệ thống phát thanh cũng bị cưỡng đoạt. Trên loa phóng thanh chỉ còn những lời chỉ trích Philippines, Việt Nam và tuyên bố Biển Đông là… của Trung Quốc.

Giới hữu trách tại Việt Nam chỉ còn một lựa chọn: Tắt cả mạng máy tính lẫn hệ thống phát thanh ở Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Việc tiếp nhận khách – kiểm tra giấy tờ tùy thân – phát thẻ lên phi cơ,… được thực hiện trên giấy và bằng tay! Chuyển các thông tin cần thiết đến hành khách bằng loa cầm tay. Tất nhiên, theo sau đó là hàng trăm chuyến bay và hành khách bị trễ chuyến bay. Có một điểm đáng chú ý là thay vì trở thành hỗn loạn, Nội Bài và Tân Sơn Nhất lại rất trật tự. Mọi người nhẫn nại chờ đợi, chịu đựng những bất tiện, không oán thán, chê trách.

Ngoài mạng máy tính điều hành hoạt động và hệ thống phát thanh của phi trường, tin tặc cưỡng đoạt luôn cả quyền kiểm soát trang web của Vietnam Airlines trên Internet. Thông tin cá nhân của khoảng 400,000 hành khách sử dụng các dịch vụ do Vietnam Airlines cung cấp được tin tặc thu thập, đóng thành “gói” để tặng không qua Internet. Đến cuối tuần, một số trang web khác của Việt Nam cũng bắt đầu mất quyền kiểm soát.

Giới hữu trách ở Việt Nam chỉ có vài thông báo liên quan đến sự kiện vừa kể: (1) Đang điều tra và (2) Tin tặc không kiểm soát được mạng máy tính liên quan tới điều hành phi cơ để thiết lập và duy trì an toàn bay.

Tuy nhiên thông báo loại (2) có mâu thuẫn: Trong khi một viên chức Cục Hàng Không Việt Nam khẳng định, mạng máy tính liên quan tới điều hành phi cơ để thiết lập và duy trì an toàn bay là hệ thống riêng biệt, được bảo vệ nghiêm ngặt, tin tặc không thể xâm nhập, cưỡng đoạt quyền kiểm soát thì một viên chức của Vietnam Airlines nói với báo giới là trước đó vài ngày, hãng này đã “chủ động đánh sập hệ thống điều hành liên quan đến an toàn bay để không bị hacker tấn công.”

1937CN, nhóm tin tặc Trung Quốc trước nay vẫn thực hiện nhiều cuộc tấn công trên Internet và được nhiều người tin là thủ phạm vụ tấn công hôm 29 Tháng Bảy, đã lên tiếng phủ nhận những cáo buộc gần đây nhắm vào mình vì cáo buộc đó “không hợp lý, thiếu tính khoa học.” Thông báo viết, đại ý là vào thời điểm nóng bức này, dân chúng Việt Nam nên uống trà, mở quạt, đưa thân nhân ra biển chơi bằng xe hai bánh gắn máy và hãy hô to: “Biển Đông là của Trung Quốc!”

Trong bối cảnh như vậy, VnExpress chọn sự kiện, Nội Bài và Tân Sơn Nhất không những không hỗn loạn mà còn rất trật tự, mọi người nhẫn nại chờ đợi, chịu đựng những bất tiện, không oán thán, chê trách như một bằng chứng cho thấy, cuộc tấn công đã thất bại vì sự đoàn kết và tinh thần dân tộc của người Việt, sẽ là sự bất hạnh cho bất kỳ kẻ nào lăm le tấn công dân tộc này. Tuy nhiên, cảm xúc và nhận định đó bị nhiều người chỉ trích kịch liệt. Tờ Một Thế Giới nhận định, trước những biến cố như vừa kể, phải xem xem nên lựa chọn việc xoa dịu đám đông bằng lập luận “nhờ có cuộc tấn công nên dân chúng Việt Nam đoàn kết với nhau” hay phải truy vấn trách nhiệm của những cá nhân, những giới được trả lương để bảo vệ cộng đồng? Không nên ru ngủ đám đông bằng tinh thần dân tộc viển vông.

Một facebooker tên là Vũ Kim Hạnh, từng là tổng biên tập tờ Tuổi Trẻ, viết rằng, tin tặc của “các bạn bốn tốt” đã “dạy cho Việt Nam một bài học” rằng chúng đã “cắm sâu và bền” trong lòng mạng máy tính điểu khiển hệ thống phi trường Việt Nam nên có thể mắng chửi, khẳng định việc làm chủ Biển Đông, có thể cười ngạo mạn trên hệ thống phát thanh phi trường. Bà Hạnh không xác định “Đó là đòn dằn mặt hay phủ đầu? Đánh lén hay tuyên chiến?” nhưng chúng đã ra tay, trịch thượng và thô lỗ!

Thật ra tin tặc đã tấn công Việt Nam nhiều đợt. Các đợt tấn công thường xảy ra sau khi Việt Nam tỏ thái độ bất phục tùng, không tuân thủ “16 chữ vàng” và “tinh thần bốn tốt” mà Trung Quốc đề ra như kim chỉ nam cho quan hệ Trung – Việt.

Tin tặc cho thấy một cách rất rõ ràng ràng, đánh sập, kiểm soát các trang web tại Việt Nam là chuyện rất dễ dàng. Tháng Tám năm ngoái, Trung Tâm Ứng Cứu Khẩn Cấp Máy Tính Việt Nam (Vncert), thuộc Bộ Thông Tin-Truyền Thông Việt Nam, thú nhận, trong Tháng Bảy, 2015, có 1,007 máy chủ và 2,198 trang web của Việt Nam bị tấn công. Sang tuần đầu tiên của Tháng Tám, con số trang web bị tấn công là 357, trong đó có 18 trang web của hệ thống công quyền.

Hồi giữa năm ngoái, FireEye – một công ty chuyên về an ninh Internet của Hoa Kỳ – công bố một nghiên cứu, theo đó, hacker Trung Quốc đã “bám” Việt Nam suốt 10 năm

Những thông tin vừa kể chỉ minh họa thêm cho một vấn nạn vốn đã được một số chuyên gia về an ninh thông tin cho hệ thống máy tính và mạng viễn thông của Việt Nam cảnh báo trước đó hàng chục năm.

Thậm chí hồi giữa năm 2013, Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam đã lập lại cảnh báo về vấn nạn nan giải này đối với an ninh thông tin tại Việt Nam, bởi gần như toàn bộ thiết bị mà các công ty viễn thông Việt Nam đang sử dụng là sản phẩm do hai công ty Huawei và ZTE của Trung Quốc sản xuất.

Lúc đó, theo Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam, có 6/7 công ty viễn thông ở Việt Nam đang sử dụng thiết bị và công nghệ do Huawei và ZTE cung cấp. Trên toàn Việt Nam, hiện có khoảng 30,000 trạm thu phát sóng (BTS) đang sử dụng thiết bị của Huawei và ZTE. Trước nữa, chỉ tính riêng năm 2009, đã có hơn 5 triệu thiết bị như: modem, router, USB do Huawei và ZTE sản xuất đã được bán trên thị trường Việt Nam. Hiệp hội này xác nhận là chưa thống kê được số thiết bị do Huawei và ZTE sản xuất, đã được bán tại Việt Nam.

Huawei và ZTE là hai công ty hàng đầu của Trung Quốc, chuyên cung cấp thiết bị, công nghệ trong lĩnh vực viễn thông và theo Ủy Ban Tình Báo Hạ Viện Hoa Kỳ, thiết bị, công nghệ của Huawei và ZTE có thể đã được cấy những tác nhân độc hại trước khi bán cho khách hàng, gây ra mối de dọa an ninh đối với Hoa Kỳ.

Tiếc rằng tất cả những cảnh báo đó không được chính quyền Việt Nam quan tâm dẫu cho theo ước đoán của Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam, rất nhiều máy chủ của các cơ quan thuộc chính quyền Việt Nam đã bị hacker tấn công và kiểm soát, trong đó có khoảng 400 máy chủ bị nối với các mạng máy tính bên ngoài Việt Nam để ăn cắp những thông tin vốn phải được bảo mật.

Cho dù an ninh thông tin ở Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng, chính quyền Việt Nam chỉ bận tâm đến chuyện kiểm duyệt thông tin, ngăn ngừa đối lập chứ chưa làm gì để phòng chống tin tặc. (G.Đ.)

Chau Thay Co
Người Việt

Vì sao Sukhoi gặp nạn?


Vì sao Sukhoi gặp nạn? Máy bay Sukhoi

Tính đến giữa 2015 Ấn Độ đã có số chiến đấu cơ rơi nhiều kỷ lục so với các nước khác trên thế giới.

Từ tháng 4/2009 đến tháng 5/2015, có sáu chiếc Su-30 mà Nato gọi là hạng Flanker bị đâm xuống đất, đặt ra nhiều câu hỏi khác nhau cho Bộ Quốc phòng và Quốc hội Ấn Độ.

Trong những năm trước, Bộ Quốc phòng Ấn Độ cho Quốc hội biết quá nửa số phi cơ MiG mua từ Nga về (872 chiếc) bị phá hủy trong tai nạn, làm chết hơn 200 phi công và những người khác, phóng viên Andrew North viết trên BBC News.

Chỉ trong năm 2011-12, có tới 30 vụ phi cơ bị rớt.

Riêng về thế hệ Su-30 trong Không quân Ấn Độ, Rakesh Krishnan Simha có bài viết hồi tháng 6/2015 đánh giá 5 giả thuyết về vụ sáu chiếc Su-30 rơi từ giữa 2009 đến giữa năm 2015.

Sáu vụ liên tiếp

Vụ 30/04/ 2009: Tòa án Ấn Độ xác nhận chiếc Su-30MKI đâm xuống vùng Pokhran, Rajasthan vì lái trưởng tắt nhầm hệ thống bay tự động.

Vụ 30/11/2009: vật thể lạ lọt vào động cơ làm máy bay lao xuống Jaisalmer, Rajasthan sau báo động cứu hỏa.

Vụ 13/12/2011: máy bay lao xuống cách Pune 20 km vì hệ thống điều khiển điện tử có lỗi.

Vụ 19/02/2013: cánh phải máy bay bốc cháy trên bầu trời Pokhran.

Vụ 14/10/ 2013: hỏng hệ thống điều khiển điện tử.


Vụ 19/05/2015: phi công phải nhảy dù khi chiếc Su-30MKI vay từ Tezpur ở Assam gặp vấn đề kỹ thuật không xác định.

Nhưng chính vì con số tai nạn quá lớn này, các trang về quốc phòng thiên về nhận định không phải vấn đề kỹ thuật mà có thể yếu tố con người cùng cách khai thác khiến phi cơ Ấn Độ “rơi nhiều như quan tài bay”.

1: Tập luyện căng thẳng

Bài của Rakesh Krishnan Simha trích đánh giá từ ông Benjamin Lambeth thuộc tổ chức Carnegie Endowment for International Peace nói chính vì tính căng thẳng cao của chương trình tập luyện "giả định có chiến tranh ở hai mặt trận" khiến Không quân Ấn Độ gặp vấn đề.

Nói ngắn gọn thì các cuộc đánh trận giả trên không liên tiếp khiến phi công Ấn Độ lao lực.

Các chuyến bay tập 1800 km, với phi công có khi phải bay 10 giờ liên tục, phản ánh triết lý của chỉ huy Ấn Độ rằng "để mất phi công khi huấn luyện còn hơn là mất trong chiến tranh".

Điều này khiến không chỉ chính các tổ lái mà các đơn vị phục vụ mặt đất, các nhóm huấn luyện cũng mệt mỏi.

2: Môi trường bay khắc nghiệt

Nắng nóng và chim chóc bay lượn ở các khu vực gần sân bay là lý do tiếp theo gây tai nạn. Để cải thiện tình hình, Ấn Độ đã phải đặt hàng camera và dụng cụ đuổi chim gần các phi trường dân sự và quân sự.

3: Thiếu phi công huấn luyện

MiG-29 trong không lực Ấn Độ bị nạn nhiều

Cứ hai năm Ấn Độ mất 18 phi cơ (tính đến tháng 3/2013) một phần vì thiếu phi công huấn luyện. Những người chỉ tập qua loa đã được cho lên chương trình đào tạo huấn luyện viên trung cấp (IJTs) rồi cao cấp (AJTs).

Thiếu phi công khiến những người mới ra lò đã lái luôn các chiến đấu cơ như MiG-21, khiến "phi công trẻ chết rất nhiều".

4: Bảo trì máy móc kém

Tâm lý ‘chalta hai’ (chín bỏ làm mười) ở Ấn Độ là lý do khiến tiêu chuẩn bảo trì không cao. Bộ phận mặt đất còn bị xử vì gây án.

5: Quân số giảm sút

Với 34 phi độ và 600 máy bay, không quân Ấn Độ tính đến giữa 2015 đã giảm đi nhiều, từ 42 phi đội trước đó. Số phi cơ giảm đi lại phải bay trên một bầu trời rất rộng và vì thế, máy bay càng có thời gian bảo trì trong hangar.


Giải pháp

Bài báo của Rakesh Krishnan Simha cho rằng chỉ một chương trình cải cách toàn diện cùng tăng ngân sách cho không quân mới cải thiện được tình trạng tai nạn của phi cơ Ấn Độ.

BBC

Phải thận trọng trong việc cho phép trường kinh doanh đào tạo ngành y


"...Trường đại học kinh doanh và công nghệ lại mở ngành đào tạo y dược thật là một sự kiện vô tiền khoáng hậu mà gần như không thấy có ở các nước khác trên thế giới..."


Cùng tác giả
» Xem tiếp
Thời gian qua, thông tin về Trường Đại học tư thục Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội được cấp phép đào tạo ngành y đa khoa và dược học trình độ Đại học hệ chính quy đã gây xôn xao dư luận. Đã xuất hiện rất nhiều tranh cãi gay gắt, trong đó số người không đồng ý dường như đang áp đảo.

Tại sao trường kinh doanh dạy y học?

Việc một trường đại học kinh doanh và công nghệ lại mở ngành đào tạo y dược thật là một sự kiện vô tiền khoáng hậu mà gần như không thấy có ở các nước khác trên thế giới. Ở các nước, thường thì các ngành đặc biệt như y dược, sư phạm, luật học sẽ gom thành một khối đào tạo chung.

Mục tiêu của việc này là các chuyên ngành (cùng nằm trong trường y) có thể hỗ trợ nhau về cơ sở vật chất, hạ tầng, giảng viên, tư liệu,… Điều này vừa giúp sinh viên có thể học trong môi trường có điều kiện tốt, vừa không gây lãng phí đầu tư hạ tầng.

Việc để trường kinh doanh, công nghệ dạy y dược không những lãng phí về mặt đầu tư vì các ngành không hỗ trợ được cho nhau, mà còn tạo ra một môi trường hỗn tạp không có lợi cho việc đào tạo ngành y, vốn cần có một văn hóa sư phạm riêng để tạo ra những bác sĩ, dược sĩ vừa có tài, vừa có tâm. Mặt khác, dù lãnh đạo Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội và lãnh đạo Bộ Giáo dục cho biết trường này đủ điều kiện đào tạo ngành y, các phản ánh của báo chí và giới chuyên gia vẫn đặt ra quá nhiều nghi vấn cần được làm rõ về hạ tầng, năng lực chuyên môn và cam kết chất lượng đào tạo của trường khi mở ngành y dược.

Xin hãy thử tưởng tượng rằng, việc đầu tư hạ tầng 80 tỉ cùng liên kết với một số bệnh viện, vài chục giảng viên là có thể mở ngành y – một ngành học được xem là danh giá tại Việt Nam mà nhu cầu vào học chưa bao giờ thiếu nhưng đầu ra chưa thật sự đáp ứng hết nhu cầu xã hội – thì quyết định cho Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ mở ngành y sẽ là một khởi đầu màu mỡ cho hàng loạt những người mong muốn kinh doanh từ ngành học này. Thử tưởng tượng rồi hàng loạt các trường kinh doanh khác cũng mở ngành y, như sư phạm, luật, thậm chí là bách khoa, công nghệ thông tin…hễ có đủ tiền để đầu tư là được mở ngành y thì rõ ràng là bất ổn.

Phải cân nhắc hệ lụy

Có rất nhiều hệ lụy có thể xảy ra, đòi hỏi nhà chức trách phải cân nhắc tối đa trước khi chính thức cho Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ tuyển sinh ngành y. Thứ nhất, đó là chất lượng đào tạo. Một nguyên tắc tối thiểu trong việc đầu tư là kinh phí mở dự án/mở ngành đào tạo thì không khó, nhưng để duy trì các hoạt động đảm bảo hoạt động cho ngành không phải dễ, thậm chí khó gấp hai, gấp ba lần.

Con số vài chục tỷ để đầu tư hạ tầng chỉ là khởi đầu. Làm sao bảo đảm khi tiến hành hoạt động, số tiền bảo trì và phát triển hệ thống hạ tầng có thể đủ để ngành đào tạo một cách tốt nhất. Hay như việc ghi tên vài chục giảng viên vào danh sách giảng viên của trường thì không khó, nhưng làm sao cam đoan các giảng viên sẽ làm việc toàn tâm toàn ý cho trường này, nhất là khi số lượng giảng viên cam kết làm việc lâu dài tại trường (ngành y đòi hỏi 6 năm đào tạo) hiện vẫn chưa chắc chắn. Đó là chưa nói đến việc số lượng giảng viên cơ hữu, có uy tín, kinh nghiệm và vững chuyên môn có thể giảng dạy hiện vẫn là một vấn đề nan giải của ngành y nói chung. Nói một cách dễ hiểu, tạo ra thì dễ nhưng việc duy trì vận hành để có sản phẩm tốt thì không dễ và cần phải xem xét.

Mặt khác, việc trường kinh doanh đào tạo ngành y liệu có mang lại sự an tâm cho người dân, những người sẽ trực tiếp sử dụng dịch vụ y tế. Một tâm lý chung, sinh viên y của trường y chắc chắn sẽ giỏi hơn, hay ít nhất có đầy đủ điều kiện hơn để có thể trở thành một bác sĩ hoàn thiện hơn so với sinh viên y của trường kinh doanh. Có vẻ vô lý, nhưng ngay cả cái tên “kinh doanh” và “y dược” cũng là hai từ không có ý nghĩa làm tăng giá trị cho nhau, mà trái lại chính thương hiệu “kinh doanh” làm giảm đi đáng kể uy tín của ngành y dược. Không ít người lo ngại rằng thế hệ bác sĩ tốt nhiệp từ trường kinh doanh sẽ khó xin được việc nơi xuất thân của mình; nhất là hiện nay dư luận không có dấu hiệu ủng hộ, thậm chí còn phản ứng trước chủ trương trường kinh doanh đào tạo ngành y.

Nhất nghệ tinh nhất thân vinh

Ông bà xưa có câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, có nghĩa là nên tập trung vào một lĩnh vực hơn là việc lấn sân qua những ngành vốn không phải thế mạnh bản thân. Trong kinh tế học, người ta chứng minh rằng nếu giữa các thực thể có thể bù đắp và hỗ trợ cho nhau về lợi thế so sánh thì hiệu quả sẽ tốt nhất. Khi hợp tác hay liên kết với nhau, người ta cũng chỉ chọn lĩnh vực mình mạnh nhất để phát huy sức mạnh và hiệu quả.

Đó là lý do nhà nước nên có sự cân nhắc trong quản lý đào tạo. Một trường đại học chỉ nên tập trung vào một nhóm ngành nhất định, hạn chế sự lấn sân không cần thiết như kiểu kinh doanh lại đào tạo ngành y, nhất là trong bối cảnh ở Việt Nam, tuy vẫn thiếu y bác sĩ nhưng sẽ cần hơn những bác sĩ giỏi tay nghề, chứ không phải cứ hễ là bác sĩ thì đều có thể làm việc và cống hiến.

Việc phân ngành trước nay ở Việt Nam vốn cũng đang theo xu hướng của nhiều nước trên thế giới, gồm khối ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhóm ngành kỹ thuật-công nghệ, y dược. Vậy nên đừng phá vỡ cấu trúc này một cách tùy tiện để tạo nên một xu hướng đào tạo ngành y tại nhiều trường đại học. Điều đó sẽ không chỉ làm mất niềm tin của nhiều người về hình ảnh bác sĩ, mà còn tạo ra những rủi ro không cần thiết trong ngành y vì khó có thể kiểm soát và đảm bảo chất lượng đào tạo.

Cao Huy Huân
Theo blog VOA
Cao Huy Huân

Sinh trưởng ở Việt Nam và học tập tại Hoa Kỳ. Là một đại diện cho thế hệ sinh ra và lớn lên sau bước ngoặt lịch sử 1975. Luôn theo dõi sao sát những diễn biến xảy ra trong nước và nêu lên cảm nghĩ của một thế hệ hậu bối thông qua blog dưới một lăng kính trong vắt và đa chiều.

Khoa học Việt Nam và công bố quốc tế 2010 - 2014


Biểu đồ công bố khoa học ra quốc tế của VN so với các nước khác, 2010 - 2014
Một trong những môn "thể thao" mà tôi hay chơi là theo dõi công bố quốc tế trong nghiên cứu khoa học của Việt Nam. Lần này, tôi thu thập dữ liệu về số bài báo khoa học từ VN công bố trên các tập san trong danh mục ISI, và so sánh với các nước khác trong vùng. Kết quả cho thấy tình hình vẫn chưa khá mấy so với 5 năm trước đây.

Mức độ công bố khoa học của VN ra Quốc Tế trong 2010 - 2014

Tính từ 2010 đến 2014, VN đã công bố được 9313 bài báo khoa học trên các tập san ISI. Đó là một thành tích đáng khuyến khích, vì số lượng có tăng nhanh trong vài năm gần đây. Chẳng hạn như chỉ riêng năm 2014, số bài báo công bố là 2493, cao gần gầp 2 lần so với năng suất năm 2010 (1331 bài). Tính trong thời gian 2010-2014, số bài báo khoa học VN tăng khoảng 18%/năm.

Tuy nhiên, so với các nước trong vùng thì VN vẫn còn kém hơn Thái Lan, Mã Lai và Singapore. Điều đáng khích lệ là VN đã vượt qua Nam Dương và Phi Luật Tân, nên tôi không cần đưa hai quốc gia này vào bảng so sánh (mình không cần phấn đấu để bằng họ). Trong thời gian 2010-2014, Thái Lan công bố được 31231 bài, cao gấp 3.4 lần so với VN. Trong cùng thời gian, Mã Lai công bố được 42464 bài, cao hơn VN 4.4 lần. Còn Singapore thì cao hơn VN gần 6 lần. Trong tương lai gần, tôi nghĩ Mã Lai sẽ vượt qua Singapore, nhưng vẫn còn khá xa so với các "cường quốc" khoa học trong vùng như Đài Loan, Hàn Quốc, và Úc.

uy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các nước như Thái Lan và Mã Lai thì thấp hơn VN. Trong thời gian 2010-2014, tỉ lệ tăng trưởng về công bố quốc tế của Thái Lan chỉ ~6%/năm, và Mã Lai là 13%/năm. Lí do Thái Lan có vẻ chậm lại là vì do bất ổn về chính trị trong thời gian qua. Còn Mã Lai thì có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế, nên tỉ lệ tăng trưởng của họ rất đáng nể. Nhưng vì các nước vừa đề cập xuất phát từ cái nền cao hơn VN, nên cho dù họ có tỉ lệ tăng trưởng thấp, về lượng họ vẫn cao hơn VN.

Dự đoán mức độ tăng trưởng về số lượng công bố khoa học của VN

Nếu VN duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, thì đến năm 2020, số công bố quốc tế của VN chỉ bằng Mã Lai của năm 2005 và Thái Lan của năm 2007. Nói cách khác, về lượng chúng ta chậm hơn hai nước vừa kể trên dưới 10 năm.

Nói tóm lại, số lượng công bố quốc tế của khoa học VN trong 5 năm qua có tiến độ đáng kể, nhưng vẫn còn kém hơn hai nước Thái Lan và Mã Lai khá xa. Điều đáng mừng là VN đã vượt qua Nam Dương và Phi Luật Tân (và 2 nước này không còn là "đối thủ" của VN nữa). Tôi từng nói rằng VN phải duy trì tốc độ tăng trưởng 30, thậm chí 50% mỗi năm, thì may ra mới có cơ hội sánh bằng với Thái Lan và Mã Lai trong tương lai, chứ với tốc độ hiện nay thì VN khó bắt kịp họ. Để làm việc đó (bắt kịp họ), VN cần phải triển khai nhiều biện pháp, kể cả mô hình tổ chức mới về nghiên cứu khoa học, và cải cách hệ thống phân bố ngân sách cho nghiên cứu khoa học từ cấp cơ sở đến trung ương, và phải mạnh tay dứt khoát loại bỏ tất cả những giáo sư và tiến sĩ dỏm

Nguyễn Văn Tuấn
Theo FB Nguyễn Tuấn
 

Website và blog tiêu biểu

Top ↑ Copyright © 2008. Tin Tức Hàng Ngày - All Rights Reserved
Back To Top ↑